Đã đôi lần anh em đi tour miền Tây và đi qua nhiều địa danh bắt đầu từ Trà như Trà Vinh, Trà Ôn, Trà Nóc... Nhưng mà không hiểu vì sao lại có tên như vậy
Trước hết, trong tập “Địa danh Việt Nam” (bản thảo) của PGS-TS Lê Trung Hoa (An Giang) có giải thích thành tố Trà (trang 67, 68). Ông cho biết: Trong địa danh Việt Nam, có hàng chục đơn vị thành tố Trà ở trước, có một số ít gốc Việt và Hán Việt; đa số bắt nguồn từ các ngôn ngữ dân tộc anh em.
Trà Mi (Quảng Nam) là loại cây thuộc hoa hồng, trồng làm cảnh.
Thành tố Trà gốc Hán Việt
Sau cùng là thành tố Trà bắt nguồn từ ngôn ngữ dân tộc anh em.
Một số thành tố gốc Chăm Ia chuyển thành. Ia là “sông nước”. Các địa danh Trà Bồng, Trà Khúc, Trà Câu (Quảng Ngãi), Trà Bình (Bình Định) thuộc loại này.
Một số thành tố Trà gốc Khmer, do âm tiết Tra chuyển thành:
Nhiều thành tố do từ Tà, nghĩa là “Ông” chuyển thành:
Và nhiều tên gọi gốc Tà (ông): Trà Quýt “ông Quýt”; Trà Men “ông Men”; Trà Vong hay Trà Vông “là ông quan lớn”.
Còn ở huyện Trà Ôn, có nhiều tên mang từ Trà đứng đầu như: Trà Côn, Trà Ngoa, Trà Mòn. Theo giải thích đều mang tên người có công lập xóm làng và Trà Ôn có tư liệu giải thích gốc Khmer là Tà Ôn là “ông quan lớn tên Ôn” (ở ấp Giồng Thanh Bạch, xã Thiện Mỹ có lăng Tiền quân Thống chế Điều bát Nguyễn Văn Tồn, lâu nay người dân gọi là lăng Ông Lớn) có phải đọc trại tên ông không?
Ngoài ra, một số yếu tố Trà do một từ Khmer tương đối xa lạ về mặt ngữ am chuyển thành.
Bên cạnh, sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của Sơn Nam, sách lược khảo “Nguồn gốc địa danh Nam Bộ” của Bùi Đức Tịnh giải thích: “Trà” là một từ tố xuất hiện ở nhiều địa danh. Ở Vĩnh Long có Trà Ôn, Trà Côn, Trà Sơn, Trà Luộc, Trà Ngoa; ở Trà Vinh có Trà Cú, Trà Mẹt; ở Sóc Trăng có Trà Cuôn, Trà Kha; Hậu Giang có Trà Ết…
Theo tiếng Khmer: Prek có nghĩa là sông, như giải thích ở trên, Trà Cuôn có nghĩa là sông có nhiều rau muống; còn Trà Ôn lại được giải thích là sông có nhiều cây môn; Trà Luộc là sông có nhiều cây vông.
Tuy nhiên, những địa danh khởi đầu chữ “Trà” có thể đó là từ Khmer có nghĩa nhất định theo lối “srock” là “xứ”, “prah” là “ao”. Nhưng, trong địa danh Trà Vinh, “trà” chỉ là ngữ âm Việt hóa phần đầu của chữ “trapeng”, có nghĩa là “tượng Phật trong ao” linh thiêng.
Nhìn chung, khi người Kinh vào khai phá vùng Nam Bộ, ở khu vực ĐBSCL giai đoạn chúa Nguyễn, có những nhóm người Khmer sống liên hệ khá mật thiết với người Kinh. Bắt đầu từ đó, những ngôn ngữ địa danh dân tộc Khmer được Việt hóa theo một số cách nói. Trong đó gặp nhiều nhất là từ tố địa danh có tên đầu là Trà, Cái, Bà…
"Những bài viết từ Website do Hướng Dẫn Viên : Châu Phước Huy sưu tầm và chọn lọc . Nên có thể được dẫn từ nhiều nguồn khác nhau từ các báo truyền thống , mạng xã hội và trang cộng đồng . Nên mong quý vị xem các bài viết mang tính chất tham khảo và và share nếu thấy bổ ích " |
Copyright © 2018 Châu Phước Huy . Design by Chau Phuoc Huy